Go Back Go Back
Go Back Go Back

Bài phát biểu của Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, tại Hội thảo phổ biến kết quả và khuyến nghị của Dự án về các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người tại Việt Nam

Bài phát biểu của Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, tại Hội thảo phổ biến kết quả và khuyến nghị của Dự án về các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người tại Việt Nam

Tin tức

Bài phát biểu của Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, tại Hội thảo phổ biến kết quả và khuyến nghị của Dự án về các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người tại Việt Nam

calendar_today 15 November 2022

Bà Naomi Kitahara
Bà Naomi Kitahara

 

 

  • Ông Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em, Bộ Y tế;
  • Đại diện của Bộ Y tế, TTKSBT các tỉnh Bắc Kạn, Lai Châu, Sơn La, Kon Tum, Đắk Nông và Gia Lai;
  • Đại diện của Quỹ MSD for Mothers;
  • Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y tế Công cộng 
  • Các đồng nghiệp UNFPA,
  • Và đại diện các cơ quan báo chí trong nước.

 

Hôm nay, chúng tôi rất vui mừng được tề tựu với các anh chị tại đây để thảo luận về kết quả của đánh giá đầu vào cho Dự án: Không để ai bị bỏ lại phía sau: Các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ tại các vùng dân tộc ít người tại Việt Nam”. Dự án này được đồng tài trợ bởi Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) và Quỹ MSD for Mothers. UNFPA Việt nam sẽ hợp tác và phối hợp với Bộ Y tế để triển khai dự án. 

 

Với tổng ngân sách tài trợ 1,2 triệu USD từ Quỹ MSD for Mothers và MSD Việt Nam và 820 nghìn USD từ UNFPA, dự án này là một trong những sáng kiến ​​quan trọng nhất của UNFPA Việt Nam nhằm mục tiêu giảm tử vong mẹ ở 60 xã vùng sâu, vùng xa thuộc 6 tỉnh khó khăn nhất của Bắc Kạn, Lai Châu, Sơn La, Đắk Nông, Kon Tum và Gia Lai thông qua các hoạt động can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của phụ nữ dân tộc ít người và có nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.

 

Để đạt được các mục tiêu của Dự án, nhóm nghiên cứu của trường Đại học Y tế Công cộng đã tiến hành đánh giá đầu vào tại 60 xã dân tộc ít người đặc biệt khó khăn. Bằng các phương pháp khác nhau, đánh giá đã xác định nhu cầu đào tạo cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tại địa phương và đưa ra các chiến lược truyền thông thay đổi hành vi và huy động sự tham gia của cộng đồng. Các can thiệp của chương trình nhằm đảm bảo việc làm mẹ an toàn cho phụ nữ mang thai, trên cơ sở có cân nhắc và xem xét đến các phong tục, tập quán văn hóa xã hội đặc thù của họ.

 

Kính thưa các vị đại biểu,

 

Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở cấp độ quốc gia trong vòng 20 năm qua và là một trong sáu quốc gia duy nhất trên thế giới đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 (MDG5) về giảm tử vong mẹ vào năm 2015. Tuy nhiên, sự chênh lệch và bất bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục vẫn còn tồn tại ở các nhóm dân tộc và vùng miền khác nhau.

 

Do đó, kết quả của cuộc khảo sát đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hẹp những chênh lệch và bất bình đẳng này. Nhìn vào một số kết quả khác, khảo sát cho thấy các trạm y tế xã trên địa bàn thiếu các dịch vụ cơ bản, thiết bị khám sàng lọc phục vụ cho chăm sóc bà mẹ và các trang thiết bị thiết yếu cho việc khám thai và sinh con. Chỉ có 11% bà mẹ dân tộc ít người ở 60 xã này được khám thai ít nhất 4 lần. Tỷ lệ bà mẹ sinh tại các cơ sở y tế cũng rất rất thấp và chỉ khoảng 30%. Về kế hoạch hóa gia đình, chỉ 53% các bà mẹ tại khu vực này sử dụng các biện pháp tránh thai và các nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình không được đáp ứng là 18%. Đặc biệt đối với phụ nữa dân tộc Thai, nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình không được đáp ứng lên tới 49%. Tỷ lệ phần trăm sự tự chủ chung của người phụ nữ dân tộc ít người trong cả 3 lĩnh vực sử dụng dịch vụ y tế, QHTD và sử dụng BPTT chỉ đạt 61%.

 

Điều tra cũng chỉ ra nhu cầu đào tạo chuyên môn cho cán bộ y tế tuyến huyện và tuyến xã, đặc biệt là kỹ năng đánh giá, phát hiện các nguy cơ khi mang thai và xử trí cấp cứu sản khoa và chăm sóc sơ sinh. Ngoài ra, hầu hết các bà mẹ dân tộc ít người và các thành viên trong gia đình họ chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc làm mẹ an toàn, đặc biệt là khám thai và sinh con tại cơ sở y tế.

 

Kính thư Quý vị đại biểu,

 

Bản thân tôi đã từng trải nghiệm và chứng kiến việc dễ bị tổn thương về sức khỏe sinh sản và tình dục của cộng đồng các xã dân tộc ít người trong chuyến đi thực địa năm ngoái của tôi đến tỉnh Lai Châu, một trong sáu tỉnh tham gia dự án. Đồng bào dân tộc ít người thường cư trú ở nơi thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, và rất xa các cơ sở y tế, nơi mà số lượng bộ y tế có tay nghề và trang thiết bị, vật tư y tế thiết yếu còn rất hạn chế.

 

Tôi tin tưởng rằng kết quả của cuộc điều tra sẽ là bằng chứng mạnh mẽ cho việc xây dựng các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục có chất lượng để ngăn ngừa tử vong mẹ, góp phần vào nỗ lực của Việt Nam trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững-SDGs vào năm 2030.

 

Nhân dịp này, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Quỹ MSD for Mothers và MSD Việt Nam đã hỗ trợ tài chính cho các can thiệp đổi mới sáng tạo nhằm giảm tử vong mẹ ở sáu tỉnh dân tộc ít người. Chúng tôi như được truyền thêm nhiệt huyết và sự khích lệ để có thể hợp tác với MSD, và chính mối quan hệ hợp tác này cũng rất sáng tạo, dẫn đầu cách thức mà Liên Hợp Quốc, đặc biệt là UNFPA, đang mở rộng quan hệ đối tác để đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau, tiến tới  hoàn thành các tựu Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) trước năm 2030.

 

Cùng phối hợp với Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh dự án và các đối tác là các tổ chức xã hội dân sự, UNFPA sẽ đạt được mục tiêu đề ra của dự án một cách hiệu quả để hỗ trợ phụ nữ dân tộc ít người dễ bị tổn thương

 

Xin trân trọng cám ơn!