Bạn đang ở đây

-    Kính thưa Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng, Phó Cục Trưởng Cục Y tế dự phòng thuộc Bộ Y tế; 
-    PGS.TS Dương Thị Hồng, Quyền Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương Việt Nam, Bộ Y tế; 
-    Đại diện các Cục, Vụ liên quan trực thuộc Bộ Y tế và các Viện nghiên cứu và đào tạo;  
-    Đại diện các Bộ, ngành, Quốc hội và Văn phòng Chính phủ;
-    Đại diện và đồng nghiệp từ các cơ quan thuộc LHQ, các tổ chức xã hội dân sự và khu vực tư nhân; 
-    Đại diện các cơ quan truyền thông trong nước. 

Tôi rất vinh dự được chào đón các quý vị tới tham gia sự kiện đặc biệt này nhằm công bố kết quả Nghiên cứu về hiệu quả đầu tư tiêm chủng HPV tại Việt Nam. Nghiên cứu được UNFPA cùng với Bộ Y tế, Viện Nghiên cứu Kinh tế Chiến lược Victoria thuộc Đại học Victoria, và Trung tâm Daffodil của Đại học Sydney thực hiện. Nghiên cứu là nỗ lực chung nhằm đưa ra những bằng chứng có chất lượng về hiệu quả chi phí làm cơ sở xây dựng các chính sách cấp quốc gia và địa phương về phòng ngừa ung thư cổ tử cung. 

Nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung là do nhiễm vi-rút HPV (một loại vi-rút gây u nhú ở người – Human Papillomavirus). Căn bệnh này hiện đang là mối quan tâm lớn cho sức khỏe cộng đồng trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Năm 2018, ung thư cổ tử cung xếp thứ sáu trong danh sách các loại ung thư phổ biến nhất với phụ nữ Việt Nam, với 4.200 ca mắc mới và 2.420 ca tử vong. 

Chúng ta cũng cần hiểu rằng ung thư cổ tử cung hoàn toàn có thể ngăn ngừa. Chiến lược toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhằm thanh toán ung thư cổ tử cung vào năm 2030 kêu gọi tất cả các quốc gia trên thế giới thực hiện tiêm vắc-xin ngừa HPV cho 90% trẻ em gái trước 15 tuổi. Chúng ta cũng cần đảm bảo 70% phụ nữ được sàng lọc ung thư cổ tử cung. Và chúng ta cũng cần hướng đến mục tiêu đảm bảo 90% phụ nữ được phát hiện tiền ung thư hoặc ung thư có thể tiếp cận các phương pháp điều trị.

Vậy tình hình tiêm chủng HPV tại Việt Nam đến thời điểm này là như thế nào? Đáng tiếc là ở Việt Nam, tỷ lệ tiêm chủng HPV và sàng lọc ung thư cổ tử cung vẫn còn thấp. Theo Điều tra các chỉ tiêu Mục tiêu Phát triển Bền Vững (SDGs) về Phụ nữ và Trẻ em do Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện với UNFPA và UNICEF vào năm 2018, chỉ 12% phụ nữ và trẻ em gái trong độ tuổi 15-29 đã được tiêm chủng, và chỉ 28% phụ nữ từ 30-49 tuổi đã được sàng lọc ung thư cổ tử cung. 

Trong bối cảnh này, Nghiên cứu về hiệu quả đầu tư tiêm chủng HPV tại Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng vì nghiên cứu có thể cung cấp các bằng chứng có chất lượng về tác động của các chiến lược phòng ngừa ung thư cổ tử cung khác nhau, bao gồm chương trình tiêm chủng HPV và sàng lọc ung thư cổ tử cung. Thông qua những ước tính về hiệu quả, chi phí cần thiết, hiệu quả chi phí, lợi ích thu được từ đầu tư, và lộ trình thanh toán ung thư cổ tử cung của các kịch bản chiến lược khác nhau, kết luận của  nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia và địa phương về việc triển khai hiệu quả tiêm chủng HPV cho trẻ em gái và sàng lọc ung thư cổ tử cung cho phụ nữ Việt Nam. 

Kính thưa các quý vị đại biểu,

Trong vài phút nữa thôi, các nhà nghiên cứu của chúng tôi sẽ trình bày các kết luận chính của quá trình phân tích toàn diện nhiều nguồn dữ liệu, qua đó chứng minh sự hiệu quả về chi phí, những lợi ích về kinh tế và xã hội của việc tiêm vắc-xin phòng HPV. Chúng tôi tin rằng các bằng chứng xác thực được đưa ra trong sự kiện hôm nay sẽ là tín hiệu cho các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia y tế, tổ chức xã hội dân sự, những nhà nghiên cứu và đối tác phát triển ủng hộ và triển khai thực hiện các kế hoạch phòng chống ung thư cổ tử cung, đồng thời thúc đẩy nỗ lực hướng tới một tương lai không còn căn bệnh ung thư cổ tử cung tại Việt Nam. 

Nhân đây tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến tiến sĩ Kim Sweeny đến từ Viện Nghiên cứu Chiến lược Victoria, và Tiến sĩ Diệp Nguyễn từ Trung tâm Daffodil thuộc Đại học Sydney vì đã hoàn thành nghiên cứu đầy thử thách này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến GS Dương Thị Hồng, các đại diện từ Bộ Y tế và các đối tác khác đã tích cực đóng góp vào nghiên cứu này. 

Tôi xin đảm bảo rằng UNFPA cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam và các đối tác triển khai thực hiện tiêm vắc-xin phòng HPV tại Việt Nam, từ đó cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của phụ nữ Việt Nam. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đạt được Các Mục tiêu Phát triển Bền vững đến năm 2030. 

Không người chồng nào phải chịu cảnh mất vợ, không người anh chị em nào phải chịu cảnh mất chị gái hay em gái, không người cha người mẹ nào phải chịu cảnh mất con và không người con nào phải chịu cảnh mất mẹ do ung thư cổ tử cung. Phụ nữ và trẻ em gái phải được hưởng quyền này vì họ đóng vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của đất nước. 

Cảm ơn quý vị đã chú ý lắng nghe.